Bài bạc | Cờ tướng trực tuyến

Một số vấn đề cơ bản về lịch sử tổ chức công đoàn Việt Nam

I. TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIỆT NAM Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I của thực dân Pháp (1897-1914) và nhanh chóng trưởng thành trong đợt khai thác thuộc địa lần…

I. TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIỆT NAM

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I của thực dân Pháp (1897-1914) và nhanh chóng trưởng thành trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929). Do phải chịu hai tầng áp bức, bóc lột tàn bạo của chế độ thuộc địa nửa phong kiến nên đời sống giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta vô cùng cực khổ. Bởi vậy các cuộc đấu tranh của công nhân lao động ở các hầm mỏ, nhà máy, đồn điền đã liên tiếp nổ ra chống lại chế độ tư bản và bọn phong kiến. Ban đầu các cuộc đấu tranh còn diễn ra lẻ tẻ, mang tính tự phát, nhưng về sau đã có sự liên kết, có tính tổ chức chặt chẽ hơn.

Từ sự ra đời của phong trào và nhu cầu của cuộc đấu tranh, nhiều nơi đã thành lập những hội nghề, nghiệp đoàn, công hội. Tiêu biểu nhất là Công hội Ba Son (Sài Gòn – Gia Định) được thành lập năm 1920 do đồng chí Tôn Đức Thắng (sau này là Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đứng đầu. Tuy phạm vi hoạt động chỉ ở cơ sở, thời gian hoạt động không lâu (năm 1926 tự giải thể) nhưng Công hội Ba Son đã có ảnh hưởng lớn trong phong trào công nhân Nam Bộ, để lại một dấu ấn trong lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức Công đoàn Việt Nam.

Người đặt cơ sở lý luận và nền tảng tư tưởng cho việc thành lập Công đoàn Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1923 khi viết tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người đã nói: “…Việc cần thiết hiện nay là phát động một cuộc tuyên truyền để thành lập các tổ chức công đoàn ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa và phát triển các công đoàn hiện có còn dưới hình thức phôi thai”.

Năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã chỉ rõ tính chất, nhiệm vụ của Công hội là: “Tổ chức Công hội trước là để công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”.

Đứng trước sự đòi hỏi và yêu cầu của phong trào công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đông Dương Cộng sản Đảng, ngày 28/7/1929, tại số nhà 15 phố Hàng Nón, thành phố Hà Nội đã tiến hành Đại hội thành lập Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ (tiền thân của Công đoàn Việt Nam). Tham dự Đại hội có đại biểu của tổng công hội các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, khu mỏ Đông Triều, Mạo Khê (Quảng Ninh).

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Tổng Công hội Đỏ do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng đứng đầu.

Đại hội thông qua Chính cương, Điều lệ, đồng thời quyết định ra Báo Lao Động (tiền thân của Báo Lao động ngày nay) và Tạp chí Công hội Đỏ (tiền thân của Tạp chí Lao động & Công đoàn ngày nay) làm cơ quan ngôn luận và nghiên cứu lý luận của Công hội Đỏ.

II. TÊN GỌI CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM

1. Công hội Đỏ (1929-1935)

2. Nghiệp đoàn Ái hữu (1936-1939)

3. Hội Công nhân Phản đế (1939-1941)

4. Hội Công nhân Cứu quốc (1941-1946)

5. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1946-1961)

6. Tổng Công đoàn Việt Nam (1961-1988)

7. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1988 đến nay)

Dù trải qua nhiều lần đổi tên, nhưng bản chất, nguyên tắc tổ chức của Công đoàn Việt Nam vẫn không thay đổi.

III. CÁC KỲ ĐẠI HỘI CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM

Trải qua 85 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã tiến hành được 11 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội đều đề ra mục tiêu, khẩu hiệu hành động phù hợp với đặc điểm, tình hình, bối cảnh lịch sử của thời kỳ cách mạng đó.

1. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ I

Họp từ ngày 1/1/1950 đến ngày 15/1/1950 tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Về dự Đại hội có trên 200 đại biểu cho CNVC-NLĐ cả nước.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa I gồm 21 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng thư ký.

Mục tiêu của Đại hội: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ cho kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”.

2. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ II

Họp từ ngày 23/2/1961 đến ngày 27/2/1961 tại Trường Thương nghiệp, Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 752 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ. Đại hội đã quyết định đổi tên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành Tổng Công đoàn Việt Nam.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam khóa II gồm 55 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch và đồng chí Trần Danh Tuyên đã được bầu làm Tổng thư ký.

Mục tiêu của Đại hội: Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng CNXH ở miền Bắc, với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà.

3. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ III

Họp từ ngày 11/2/1974 đến ngày 14/2/1974 tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, về dự Đại hội có 600 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ cả nước.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam khóa III, nhiệm kỳ 1974-1978 gồm 71 ủy viên. Đoàn Chủ tịch gồm 21 ủy viên, Ban Thư ký gồm 9 ủy viên. Đồng chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được bầu làm Chủ tịch danh dự. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch. Đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký. Các đồng chí Nguyễn Công Hòa, Trương Thị Mỹ được bầu làm Phó chủ tịch.

Mục tiêu của Đại hội: “Động viên sức người, sức của chi viện cho chiến trường, tất cả để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”.

4. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IV

Họp từ ngày 8/5/1978 đến ngày 11/5/1978 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 962 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ cả nước.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam khóa IV, nhiệm kỳ 1978-1983 gồm 155 ủy viên, Ban Thư ký gồm 12 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký.

Mục tiêu của Đại hội: “Động viên giai cấp công nhân và những người lao động khác thi đua lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa trong cả nước”.

5. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ V

Họp từ ngày 16/11/1983 đến ngày 18/11/1983 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 949 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ cả nước.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam khóa V, nhiệm kỳ 1983-1988 gồm 155 ủy viên, Ban Thư ký gồm 13 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Đức Thuận được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Phạm Thế Duyệt được bầu làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký. Tháng 2/1987 đồng chí Phạm Thế Duyệt được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Vũ Định được bầu làm Phó chủ tịch, đồng chí Dương Xuân An được bầu làm Tổng thư ký.

Mục tiêu Đại hội: “Động viên công nhân lao động thực hiện ba chương trình lớn của Đảng. Phát triển nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu”.

6. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VI

Họp từ ngày 17/10/1988 đến ngày 20/10/1988 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 834 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ cả nước. Đại hội đã đổi tên Tổng Công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa VI, nhiệm kỳ 1988-1993 gồm 155 ủy viên, Ban Thư ký gồm 15 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch, các đồng chí Dương Xuân An, Cù Thị Hậu được bầu làm Phó chủ tịch.

Mục tiêu của Đại hội: “Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng vì “việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”.

7. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VII

Họp từ ngày 9/11/1993 đến ngày 12/11/1993 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có hơn 600 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ cả nước.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa VII, nhiệm kỳ 1993-1998 gồm 125 ủy viên, Đoàn Chủ tịch gồm 15 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch, các đồng chí Cù Thị Hậu, Hoàng Minh Chúc, Nguyễn An Lương, Hoàng Thị Khánh được bầu làm Phó chủ tịch.

Mục tiêu của Đại hội: “Đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo và bảo vệ lợi ích của công nhân lao động”.

8. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VIII

Họp từ ngày 3/11/1998 đến ngày 6/11/1998 tại Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt – Xô, Hà Nội. Dự Đại hội có 897 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ cả nước.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam khóa VIII, nhiệm kỳ 1998-2003 gồm 145 ủy viên, Đoàn Chủ tịch gồm 17 ủy viên. Đồng chí Cù Thị Hậu được bầu làm Chủ tịch, các đồng chí Nguyễn An Lương, Đặng Ngọc Chiến, Đỗ Đức Ngọ, Nguyễn Đình Thắng được bầu làm Phó chủ tịch.

Mục tiêu của Đại hội: “Xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển về số lượng và chất lượng, làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh vững chắc với nông dân và trí thức; ra sức phát triển đoàn viên trong các thành phần kinh tế, tiếp tục xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, nâng cao trình độ cán bộ công đoàn, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng pháp luật, chính sách có liên quan đến CNVC-NLĐ chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC-NLĐ; tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh phong trào thi đua sôi nổi, động viên CNVC-NLĐ phát huy nội lực phát triển kinh tế – xã hội vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo con đường xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội đề ra khẩu hiệu hành động: “Vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh”.

9. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ IX

Họp từ ngày 10/10/2003 đến ngày 13/10/2003 tại Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt – Xô, Hà Nội. Dự Đại hội 900 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ cả nước.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Việt Nam khóa IX, nhiệm kỳ 2003-2008 gồm 150 ủy viên, Đoàn Chủ tịch gồm 19 ủy viên. Đồng chí Cù Thị Hậu được bầu làm Chủ tịch, các đồng chí Đặng Ngọc Tùng, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Đình Thắng, Đỗ Đức Ngọ, Đặng Ngọc Chiến được bầu làm Phó chủ tịch.

Tháng 12/2006, đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu làm Chủ tịch. Tháng 9/2007, các đồng chí Hoàng Ngọc Thanh, Mai Đức Chính, Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Văn Ngàng được bầu làm Phó chủ tịch.

Mục tiêu của Đại hội: “Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có hiệu quả trong CNVC-NLĐ; tham gia quản lý, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC-NLĐ; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức Công đoàn trong các thành phần kinh tế; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ công đoàn; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đề ra khẩu hiệu hành động: “Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVC-NLĐ, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

10. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ X

Đại hội X Công đoàn Việt Nam diễn ra từ ngày 2/11/2008 đến ngày 5/11/2008 tại Cung Văn hóa lao động Hữu nghị Việt – Xô, Hà Nội. Tham dự Đại hội có 985 đại biểu đại diện cho CNVC-NLĐ cả nước. Đại hội đã được đồng chí Nông Đức Mạnh – Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng trao tặng bức trướng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: “Công đoàn Việt Nam đổi mới, sáng tạo; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, CNVC-NLĐ; vì sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước”.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa X (2008-2013) gồm 160 đồng chí. Đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu làm Chủ tịch. Các đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Hoàng Ngọc Thanh, Mai Đức Chính, Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Văn Ngàng được bầu làm Phó chủ tịch.

Mục tiêu Đại hội: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của công đoàn các cấp; hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, CNVC-NLĐ làm đối tượng vận động; chuyển mạnh hoạt động công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”.

Đại hội đề ra khẩu hiệu hành động: “Công đoàn Việt Nam đổi mới, sáng tạo; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, công nhân, viên chức lao động; vì sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước”. 8 nhóm chỉ tiêu phấn đấu trong nhiệm kỳ X với các chương trình hành động cụ thể cũng đã được thông qua.

11. Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XI

Diễn ra từ ngày 27 – 30/7/2013, tại Cung Văn hoá Lao động Hữu nghị Việt – Xô, Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 944 đại biểu triệu tập. Đại hội XI Công đoàn Việt Nam diễn ra trong bối cảnh Luật Công đoàn 2012, Bộ luật Lao động 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành bắt đầu được thực thi; Nghị quyết 20-NQ/TW sẽ được T.Ư sơ kết, đánh giá 5 năm triển khai và đề ra những giải pháp triển khai hiệu quả hơn, tạo hành lang pháp lý quan trọng, động lực khích lệ cho hoạt động công đoàn…

Đại hội đã nghe đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, phát biểu chỉ đạo Đại hội, trong đó nhấn mạnh: Thời gian tới, hoạt động của tổ chức Công đoàn phải thực sự hướng về cơ sở, giải đáp trúng những vấn đề thực tiễn đặt ra về đời sống, việc làm của CNVCLĐ; thực sự chăm lo, đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ. Tổng Bí thư đề nghị tổ chức Công đoàn cần nắm vững, quán triệt thật sâu sắc những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, làm tốt hơn nữa nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân xứng đáng là lực lượng nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước.

Đại hội thống nhất đề ra mục tiêu, phương hướng tổng quát và phương châm hành động của tổ chức CĐVN trong nhiệm kỳ 2013 – 2018:

– Mục tiêu, phương hướng tổng quát:

“Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn theo hướng vì đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước; tập trung hướng về cơ sở, thực hiện tốt chức năng chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục và tổ chức thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động; đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần xây dựng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

– Phương châm hành động:

 “Vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công đoàn”

Đại hội nhất trí số lượng Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XI là 175 đồng chí và đã bầu tại đại hội 172 đồng chí.

Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XI đã tiến hành họp hội nghị lần thứ nhất, nhất trí số lượng Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XI là 27 đồng chí và đã bầu tại Hội nghị lần thứ nhất là 24 đồng chí. Hội nghị bầu đồng chí Đặng Ngọc Tùng – Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam – giữ chức Chủ tịch và bầu 5 đồng chí: Mai Đức Chính, Nguyễn Thị Thu Hồng, Nguyễn Văn Ngàng, Trần Văn Lý, Trần Thanh Hải giữ chức Phó Chủ tịch; bầu Uỷ ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khoá XI gồm 15 đồng chí và bầu đồng chí Đỗ Xuân Học – Uỷ viên Đoàn Chủ tịch – làm Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Đại hội xác định 11 nhóm chỉ tiêu phấn đấu và 04 chương trình hành động của tổ chức Công đoàn trong nhiệm kỳ mới, trong đó:

– 07 nhóm chỉ tiêu thuộc trách nhiệm trực tiếp của Công đoàn.

– 04 chỉ tiêu tổ chức Công đoàn tham gia chỉ đạo, thực hiện.

– 04 chương tŕnh hành động:

+ Chương tŕnh “Phát triển đoàn viên giai đoạn 2013 – 2018”.

+ Chương tŕnh “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ công đoàn”.

+ Chương tŕnh “Nâng cao chất lượng thương lượng, ký kết và thực hiện có hiệu quả thoả ước lao động tập thể”.

+ Chương tŕnh “Nâng cao tŕnh độ, kỹ năng nghề nghiệp cho đoàn viên và người lao động”.

Nhằm thực hiện tốt mục tiêu, phương hướng đặt ra, Đại hội xác định 08 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. 8 nhóm chỉ tiêu phấn đấu của Công đoàn Việt Nam trong nhiệm kỳ 2008 – 2013

1. Hàng năm có 100% cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức; có 90% trở lên số doanh nghiệp nhà nước tổ chức Đại hội công nhân, viên chức; trên 50% số công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn tổ chức Hội nghị người lao động.

2. Có 70% trở lên số công đoàn cơ sở doanh nghiệp tổ chức thương lượng với người sử dụng lao động, xây dựng, ký kết và tổ chức thực hiện Thỏa ước lao động tập thể, nhất là những nơi đông công nhân, lao động. Phấn đấu xây dựng và ký kết Thỏa ước lao động tập thể cấp ngành.

3. Tham gia cùng với cơ quan quản lý nhà nước đào tạo đội ngũ công nhân để có 70% trở lên số công nhân được đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp; phấn đấu giảm số vụ tai nạn lao động nghiêm trọng chết người và bệnh nghề nghiệp; 65% trở lên số công nhân được tham gia bảo hiểm xã hội.

4. Giới thiệu mỗi năm ít nhất 90.000 công nhân ưu tú để cấp ủy Đảng bồi dưỡng, xem xét, kết nạp vào Đảng.

5. Kết nạp mới ít nhất 1,5 triệu đoàn viên. Đến hết năm 2013, có 70% số doanh nghiệp đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam thành lập được công đoàn cơ sở và tập hợp được từ 60% trở lên số công nhân, viên chức, lao động trong doanh nghiệp gia nhập công đoàn.

6. Phấn đấu 100% cán bộ công đoàn các cấp được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về lý luận, nghiệp vụ công đoàn.

7. Phấn đấu tỷ lệ cán bộ nữ tham gia Ban Chấp hành công đoàn các cấp đạt 30% trở lên. Các công đoàn cơ sở và cấp trên trực tiếp cơ sở có từ 50% lao động nữ trở lên, nhất thiết phải có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ.

8. Hàng năm có trên 80% số công đoàn cơ sở ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước và 40% số công đoàn cơ sở ở khu vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt tiêu chuẩn “Công đoàn cơ sở vững mạnh”, trong đó có 10% đạt tiêu chuẩn “Công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc”./.

——///——